Trống đồng Ngọc Lũ được đặt trang trọng tại phòng trưng bày chuyên đề của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Trống được chế tác bằng đồng, thuộc thời kỳ văn hóa Đông Sơn cách đây khoảng 2000 - 2500 năm.
Trống được phát hiện tại xã Như Trác, huyện Lý Nhân, sau được chuyển về thờ tại đình làng Ngọc Lũ, Hà Nam. Đây là chiếc trống đẹp nhất, nguyên vẹn nhất và có hình dáng cân đối, hài hòa nhất trong các trống đồng Đông Sơn từng được phát hiện.
Cây đèn hình người quỳ bằng đồng, thuộc thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Đèn thể hiện theo hình tượng một người đàn ông mình trần đóng khố tư thế đang quỳ, hai tay nâng đĩa đèn. Đây là hiện vật độc bản, đại diện cho nghệ thuật cổ tiêu biểu, độc đáo vào thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn.
Tập thờ Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù). Tác phẩm gồm 133 bài thơ do Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây (Trung Quốc), năm 1942 - 1943. Xuyên suốt “Nhật ký trong tù” là hình ảnh “đại trí, đại nhân, đại dũng” của người tù cộng sản Hồ Chí Minh, luôn tràn đầy tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường và một quyết tâm cao độ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc.
Mộ thuyền Việt Khê, thuộc văn hóa Đông Sơn. Đây là loại quan tài bằng thân cây khoét rỗng, còn được gọi là mộ thuyền, có kích thước lớn nhất trong số những ngôi mộ có quan tài bằng thân cây khoét rỗng đã phát hiện ở Việt Nam. Bên trong mộ chứa 109 đồ tùy táng gồm chủ yếu là đồ đồng, bao gồm các loại hình vũ khí, nhạc khí, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt.
Trống đồng Cảnh Thịnh, thời Tây sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh (năm 1800). Trống đồng Cảnh Thịnh là hiện vật độc bản trong phức hợp trống đồng Việt Nam, có tạo hình thể hiện sự độc đáo khi mô phỏng theo kiểu trống da truyền thống. Hoa văn trang trí chính được đúc nổi đề tài Tứ linh, mang ý nghĩa biểu trưng cho đất nước thái bình thịnh trị, xã hội an lạc qua hình ảnh Long Mã cõng Hà đồ, Thần Quy chở Lạc thư. Trống có hai biểu tượng khởi nguyên của Kinh Dịch - tư tưởng triết học của người Á Đông về quy luật của sự biến đổi.
Một giá trị đặc biệt khác của trống đồng Cảnh Thịnh là phần tư liệu. Các dòng lạc khoản khắc trên thân cho biết trống được đúc vào tháng 4 nhuận năm Cảnh Thịnh thứ 8 thời Tây Sơn (1800), tại Chùa Cả (Linh Ứng tự), tức Chùa Nành, xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội ngày nay.
Sách "Đường Kách mệnh" của Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm là tập hợp những bài giảng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong thời gian hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) những năm 1925 – 1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành bí mật và chuyển về nước.
Thạp đồng Đào Thịnh, làm bằng chất liệu đồng, thuộc văn hóa Đông Sơn, cách đây khoảng 2000 – 2500 năm. Trong văn hóa Đông Sơn, thạp đồng là di vật tiêu biểu sau trống đồng và chủ yếu chỉ xuất hiện trong phạm vi phân bố của nền văn hóa này. Trong hàng trăm chiếc thạp đã phát hiện thì thạp Đào Thịnh là chiếc thạp có kích thước lớn nhất, hoa văn trang trí phong phú, chặt chẽ, tinh mỹ và độc đáo nhất.
Đặc biệt trên nắp thạp có gắn đối xứng tâm 4 khối tượng nam nữ đang giao hoan, loại tượng mới gặp duy nhất trong nghệ thuật Đông Sơn. Bộ phận sinh dục của người đàn ông được nhấn mạnh bằng cách phóng đại so với tỷ lệ cơ thể, phản ánh tín ngưỡng phồn thực với khát vọng vạn vật sinh sôi nẩy nở của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Ấn "Sắc mệnh chi bảo", chất liệu vàng, thời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 8 (1827). Ấn có núm hình rồng cuốn, lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán: Thập tuế hoàng kim, trọng nhị bách nhị thập tam lượng lục tiền. Ấn được đúc bằng vàng 10 tuổi, nặng 223 lạng 6 tiền (khoảng 8,3kg).
Ấn "Môn hạ sảnh ấn", chất liệu đồng, thời Trần, niên hiệu Long Khánh thứ 5 (1377). Ấn được phát hiện năm 1962 tại xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Ấn hình vuông, đế ấn tạo ba cấp, núm ấn hình bia đá, đúc 4 chữ kiểu triện. Ấn được đúc vào ngày 23 tháng 5, niên hiệu Long Khánh 5, đời vua Trần Duệ Tông (1372 - 1377).
Bản thảo "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiện vật có giá trị đặc biệt, liên quan đến sự kiện trọng đại của đất nước, gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” không chỉ có ý nghĩa lớn lao về lịch sử, mà còn mang tính nhân văn, giàu giá trị về ngôn ngữ tiếng Việt. Với hai trang viết giản dị, dễ hiểu, tinh tế nhưng hào hùng, hừng hực khí thế xung thiên, lời kêu gọi đã diễn tả được những tư tưởng, ý chí, tình cảm của cả dân tộc Việt Nam khi bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
Trống đồng Hoàng Hạ, thuộc Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Trống được phát hiện tại xóm Nội Thôn, làng Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Sơn Bình (nay thuộc Hà Nội).
Trống đồng Hoàng Hạ là loại trống H1 điển hình, kiểu dáng, đề tài hoa văn trang trí độc đáo còn khá nguyên vẹn. Trống đồng Hoàng Hạ có kích thước lớn là một tiêu bản đặc biệt được xếp vào cùng nhóm trống đồng Ngọc Lũ, nhóm trống đặc trưng tiêu biểu nhất.
Chuông chùa Vân Bản, chất liệu đồng, thời Trần, thế kỷ 13 – 14. Đây cà chuông cổ nhất, có kích thước lớn nhất, uy nghi nhất của nền văn minh Đại Việt. Thân chuông chia thành 8 ô ngăn cách bởi các đường gờ nổi. Miệng chuông đúc nổi băng cánh sen kép. Chuông có 6 núm gõ hình hoa sen nở mãn khai.
Quai chuông chùa Vân Bản gắn Bồ Lao hình rồng 2 đầu. Trên thân chuông khắc minh văn chữ Hán nói về những người có công khai phá sơn lâm, mở mang đất đai lập dựng chùa Vân Bản, người cúng dường đất cho chùa. Đặc biệt, minh văn cho biết lai lịch chuông do vị quan Tả bộc xạ cúng tiến vào chùa.
Tượng đồng hai người cõng nhau thổi khèn, thuộc văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Là pho tượng sinh động nhất trong hệ thống tượng tròn Đông Sơn. Tượng miêu tả hai người đàn ông đóng khố, đầu chít khăn, đeo khuyên tai lớn chạm vai. Người cõng trong tư thế khom lưng, hai tay vòng ra sau ôm đỡ người ngồi trên lưng, hai chân như đang nhún nhảy theo điệu nhạc. Pho tượng không chỉ là bằng chứng về một loại hình âm nhạc truyền thống dân tộc đã được khởi nguồn từ văn hóa Đông Sơn mà còn phản ảnh đời sống tinh thần phong phú, sự lạc quan, yêu đời cũng như trình độ đúc đồng đỉnh cao của người Việt cổ.
Bình gốm hoa lam vẽ thiên nga, thời Lê sơ, thế kỷ 15. Đây là chiếc bình có kích thước lớn nhất, nguyên vẹn nhất trong sưu tập hiện vật độc bản khai quật từ tàu đắm Cù Lao Chàm, Hội An. Bình có dáng cao, vai phình, thân thuôn nhỏ về đáy tạo nên sự thon thả, thanh thoát. Băng hoa văn chủ đạo chiếm không gian lớn nhất ở giữa thân bình vẽ phong cảnh với 4 con thiên nga theo tích “Phi, Minh, Túc, Thực”: một con đang dang cánh bay, một con đang nghển cổ kêu, một con đang rúc đầu vào cánh ngủ và con còn lại đang kiếm ăn.
Bia điện Nam Giao, chất liệu đá, thời Lê Trung hưng, năm Vĩnh Trị 4 (1679). Mặt bia khắc bài ký về việc chỉnh đốn, sửa chữa Điện Nam Giao Chiêu sự. Bia điện Nam giao là một trong những di vật có giá trị nhất còn sót lại của Đàn Nam Giao Thăng Long. Phản ảnh rõ nét ý nghĩa lịch sử điện Nam Giao và lễ tế Nam Giao ở Thăng Long, nghi lễ lớn nhất của các vương triều Lý – Trần – Lê để tế Trời – Đất cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.
Bia Võ Cạnh, chất liệu đá cát, thuộc văn hóa Chămpa, thế kỷ 3 – 4. Đây là một trong những tấm bia cổ nhất Đông Nam Á. Bia là khối đá có hình trụ đứng. Trên 3 mặt khắc chữ Sanskrit. Đây là tấm bia cổ nhất còn lại của Vương quốc cổ Champa. Bia được khắc bằng chữ Phạn cổ cho biết nhiều thông tin có giá trị về lịch sử Vương triều Tiền vương quốc Nam Chăm. Minh văn còn cho biết sự du nhập và ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo vào Chămpa từ sớm.